Đời sống tâm linh (Nghiên cứu) (3)

Bàn thờ, thờ cúng, đi lễ

Bàn thờ để quay mặt ra hướng cửa chính. Cao, thấp, to, bé... tùy thuộc từng nhà. Để bát hương sát bàn thờ. Một bát hương, một lọ hoa, thế thôi. Không nên mời thầy đặt bát hương bàn thờ. Tự mình làm lấy, dùng hương thường, không dùng hương hóa học, thơm mà độc, nguy lắm, nhất là đối với trẻ em khi hít phải. Mời thầy họ yểm vào bát hương, nguy hiểm.

Tổ tiên ông bà yêu cầu con cháu có cái tâm. Tâm ở đây là tâm tin vào tâm linh. Tâm linh là tâm trong sáng, tâm có đức tin có tổ tông, ông bà. Con người có phần xác và phần hồn (linh hồn), tin có linh hồn là tâm linh. Tổ tiên tồn tại 4 đời, ở bên cạnh con cháu mà không biết đấy thôi. Lúc ăn thì mời như khi còn sống, đó là có cái tâm nhớ Tổ tiên ông bà, không phải đến ngày giỗ mới về.

Khi cúng phải xin Thổ công nhà mình cho vong linh người nhà mình vào thì mới được vào nhà. Người chết già còn ở gần cõi Trần chưa được tu luyện lâu, sự rung động năng lượng của linh hồn còn ở gần cõi Trần, nên họ còn hưởng mùi hương của hoa quả, thức ăn khi con cháu cúng giỗ. Còn người chết trẻ, chưa có tội lỗi ở cõi Trần (ví dụ, sẩy thai 2, 3 tháng, khi còn bú) thì thời gian siêu thoát để vượt Thiên thường rất ngắn, nên các vong chết trẻ rất thiêng, không cần cúng lễ, hương hoa gì vì các linh hồn này không có nhu cầu hưởng thụ. Họ chỉ cần cái tâm của người Trần luôn nghĩ đến họ là họ có mặt để độ trì cho người thân trong gia đình.

Vào lúc 6 giờ 30 ngày 23 tháng Chạp hàng năm, cúng tiễn đưa ông Táo về Trời, không nên đốt vàng mã, áo quần giấy, cá chép sống... Táo quân không dùng những thứ đó. Cúng bằng tiền thật, Táo quân chứng cho cái tâm của người cúng rồi báo cáo lại với Thiên đình cái thành tâm đó. ý nghĩa là vậy. Còn tiền giả, quần áo, mũ giả đốt đi thì Táo quân đâu có dùng và cũng không có hình bóng để báo cáo lại với Thiên đình. Tiền thật, áo quần thật, cúng xong thì ta dùng tiêu, mặc quần áo đó. Người Âm của dòng họ mình nương theo bóng đồng tiền, áo quần đó mà độ trì cho con cháu làm ăn có nhiều tiền, mặc áo đó sẽ được khỏe mạnh, bình an. Sau đó đốt chân hương, lau dọn sạch sẽ. Chân hương đốt đi, gói tro ném xuống ao hồ. Bát hương bàn thờ thay mới thì cái cũ cũng vứt bỏ xuống ao hồ. Cấm vứt vào sọt rác. Làm sai sẽ bị đau nhức đầu.

Người Âm chỉ cần cái tâm của con cháu, không cần có bàn thờ hay không. Cầu khấn ngay ở bàn uống nước, nơi làm việc, khi nằm, khi đi ngoài đường, khi đi ra khỏi nhà. Cầu khấn ai, xin gì, người đó sẽ độ trì cho mình. Khi cúng phải có 6 bát 6 đôi đũa: 2 bát cho các cụ tứ đại, 2 bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời), 2 bát cho họ hàng. Người già hưởng mùi hương điều khiển mùi hương vào bát, người chết trẻ không cần. Cúng khấn 5, 10 phút thôi, không để lâu. Cúng xong là lộc nhà mình, con cháu hưởng, không cho nhà khác. Phải cúng tiền thật chia làm 3 phần: 1 phần cho người được cúng, 1 phần cho Thổ địa, Thần linh, Táo quân (đủ 3 vị) và một phần cho các cụ tứ đại, ông bà. Cúng xong dùng tiền bình thường. Tiền dùng vào việc bổ ích thì người được người Âm độ. Nếu dùng vào việc phi nghĩa như buôn lậu, đánh bạc, rượu chè be bét... thì người Âm sẽ không chứng, họ khó chịu bực mình và còn bị quả phạt nữa.

Bán vong cho chùa hoặc bố mẹ chết đưa lên chùa "ăn mày cửa Phật" là hiểu sai lầm. Chùa là để người Trần tu hành, không thu nạp vong linh người chết. Sau khi chết một thời gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống, người Trần không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để tu sửa cái tâm, làm ăn lương thiện. Ai biết thì "âm phù dương trợ", con cháu sống làm ăn khá lên.

Đi lên đền, chùa cũng phải đúng quy tắc người Âm: Trước khi đi, trình tiền đi lễ lên bàn thờ nhà mình, xin Tổ tiên ông bà chứng cho lòng thành của con cháu lên chùa (hoặc đền, mẫu) lễ Phật, Thánh, Mẫu.

Khi đến chùa, đền, mẫu phải đi ngay vào bàn thờ chính, đặt tiền khấn: Tên con..., lòng thành xin công đức nhà chùa (Thánh, Mẫu) số tiền là... xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu... chứng giám; người Trần có gì sai trái xin ... tha thứ. Sau đó, cầm tiền bỏ vào hòm công đức thì người Âm mới chứng cho. Tức là người Âm nhà mình gặp, nói với người Âm quản lý các chùa đó (tức Thổ công) chứ không phải Phật, Thánh, Thần, Mẫu luôn có mặt ở đó để chứng cho mình. Lâu nay, người Trần hiểu sai, làm sai, đi cúng lễ mãi cũng vô ích, có ai chứng cho đâu.

Các anh em ruột là con trai, ai soi trước, mời các cụ tứ đại về thì cho các vong về nhà đó trước, không phải là con trai trưởng thờ cúng các cụ là các cụ về đâu.

Người Âm trong dòng họ, tuy trọng người con trai đứng đầu dòng họ, nhưng không phải là trai trưởng mà là người con trai nào có tâm đức, thành tâm tưởng nhớ ông bà, cầu khấn họ thì họ về. Khi về thì các người Âm đứng (ngự) trên hoa tươi đang nở. Vậy dòng họ phải chọn người có tâm đức, chứ không nhất thiết là con trai trưởng. Nhà không có con trai (chết cả) thì chọn con dâu, cũng chọn người có tâm đức để lo việc thờ cúng Tổ tiên ông bà (đây là sự hướng dẫn của người Âm cho các gia đình có hỏi về vấn đề này khác với các lệ lâu nay).

Bàn thờ đang đặt ở tầng 3, nếu đưa xuống tầng 1 thì không được. Nhưng khi cúng đặt lên bàn riêng ở tầng 1 thì được. Nếu chuyển về nhà mới thì có thể xin đặt ở tầng 1.

Một vong nói với bố chuẩn bị khi bà nội mất: "Bố nên làm thế này, đặt tiền thật lên bàn thờ, khấn bà Cô Tổ 4 đời nhà mình, xin gửi số tiền để bà Cô Tổ lo phần Âm cho bà nội khi chết. Rồi khấn: trước nay bà nội có gì sai trái xin bà Cô Tổ và dòng họ xóa bỏ cho. Xin cho linh hồn bà ra khỏi xác. Sau 3 đến 5 phút, cất tiền, rồi báo họ hàng biết có tang và làm lễ tang".

Khi hồn thoát khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nhẹ. Khi hồn chưa ra khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nặng. Hồn đã thoát xác, có hỏa táng thì cũng không cảm ứng nóng. Ngược lại, khi hồn chưa thoát xác mà đưa đi hỏa táng thì linh hồn bị đốt nóng. Vì vậy, tất cả gia đình phải cầu khấn như trên để linh hồn được ra khỏi xác.

Không đặt bàn thờ Thổ địa, Thần tài dưới đất, đó là sai lầm, phải đặt cùng với bàn thờ Tổ tiên. Chỉ một bát hương thôi, cúng ai thì khấn người đó, có tâm thành thì được linh ứng chứng giám.